🐽 Văn Quan Đệ Ngũ

Nhất tâm nhất lễ kính dâng lên Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cúi xin ngài xét thương cứu độ cho gia chung chúng con già được mạnh khỏe, trẻ được bình an, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. Cúi xin quan lớn che chở cho bốn mùa được bình an tứ thời được thanh tâm an lạc. Nam mô a di đà phật! (3 lần). Bản văn Quan Lớn Đệ Ngũ Cư trần lạc đạo phú/Đệ ngũ hội. Vậy mới hay! Chẳng phải tìm xa. Đến cốc hay chỉn bụt là ta. Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa. Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha. Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa. Lẩy tam Văn phòng Diện Chẩn Sống Khỏe_ Khu nhà 102 Ngõ 95 Chùa Bộc-Đống Đa-Hà Nội _ ĐT : 0906143408 Hướng dẫn lý thuyết và thực hành cơ bản miễn phí cho những quí vị thực sự yêu thích Diện Chẩn . Hãy gọi cho chúng tôi để biết lịch . Đệ Tứ Điện Ngũ Quan Vương Xá Tội Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều Mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương. Đức đệ tam Thủy phủ, Lân nữ Công Chúa. Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, tứ vị chầu bà, năm tòa quan lớn, mười dinh các quan. Con xin cung thỉnh Đệ Lục Tôn Quan. Mười hai Tiên Cô Văn Quan Đệ Ngũ. Ca sĩ: NSƯT Xuân Hinh. Album: Xuân Hinh Với Văn Ca Thánh Mẫu. Năm phát hành: 2008. Đóng góp: tan.nguyenhuy29. queue_music Lyric. file_download Download. share Chia sẻ. control_point Thêm. Tải nhạc online Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh (Chầu Văn) mới nhất, Download nhạc hot Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh (Chầu Văn) nhanh nhất - Tải Nhạc Mp3 Về điện Thoại - tại TaiNhacMp3.Biz. Nghe nhạc với bạn bè của bạn! Chia sẻ bài hát này ngay bây giờ! Lời bài hát: Quan Lớn Đệ QUYỂN ĐỆ NGŨ * * * GIẢI KIẾT LỤC CĂN. A-nan bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như Lai tuy thuyết, đệ nhị nghĩa môn. nhi bạch Phật ngôn: Ngã văn Như Lai, giáo ngã đế quán, chư hữu vi tướng. Ngã thời từ Phật, yến hối thanh trai. Kiến chư tỷ-khưu, thiêu trầm thủy hương. Hương 24. 1. Quan Lớn Đệ Thập Triệu Tường. Chí càn khôn nổi miền Nam Việt. Đất Thanh Hoa dân kiệt địa linh. Tấu quan Hoàng Triệu giáng sinh. Vào nhà Nguyễn tộc nên danh tướng tài. Ông hoàng con vua thứ hai. Đời Lê Thái Tổ quản cai triều đình. 2) Thái độ của tác giả ntn khi bước vào cung? (nhóm 2 ) Qua con mắt và cảm nghĩ của tác giả ta thấy chúa Trịnh là một nơi đệ hưởng lạc để củng cố quyền uy , xa rời cuộc sống nhân dân, một nơi để hưởng lạc củng cố quyền uy bằng lầu cao cửa rộng che giấu sự bất ực cả mình trước tình cảnh của đất nước. mkupj. Sự tích về Quan Đệ Ngũ Tuần TranhLịch sử về Quan Đệ Ngũ Tuần TranhNỗi oan Quan Đệ Ngũ Tuần TranhQuan Tuần Tranh có ngự đồng không?Đền thờ Quan Đệ Ngũ Tuần TranhNgày tiệc Quan Đệ Ngũ Tuần TranhBản văn Quan Đệ Ngũ Tuần TranhXuân Hinh hầu đồng Quan Lớn Tuần Tranh – Khắc Tư và Thanh Long hát vănXuân Hinh hát văn Quan Đệ NgũNhiệm vụ của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là Thanh tra, giám sát nhân gian. Sự tích về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh Lịch sử về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh Có một số truyền thuyết về gốc tích của ông nhất là qua Ngọc phả Thần tích các đền phủ của Đạo mẫu, đền thờ Ông cũng như qua các bài Văn chầu. Một truyền thuyết tương đối phổ biến và qua Ngọc phả Thần tích đền Đồng Bằng thờ Vua cha Bát Hải động đình gốc tích của ông như sau Ông là con trai thứ năm của trong một gia đình lái đò trên dòng sông Vĩnh, phủ Ninh Giang nay thuộc Hải Dương thời Hùng Triều Thập Bát Hùng Duệ vương. Tuổi tác đã cao mà vợ chồng ông lái đò mà chưa có người nối dõi. Một lần ông bà bắt được bào thiêng trong có một ổ trứng trắng liền mang về nhà. Trải 9 mùa trăng đi qua, vào một ngày trời đầy mưa giông, sấm giật, 9 quả trứng nứt vỏ, 9 con rắn ra đời, ngày tháng thoi đưa, lũ rắn cũng lớn dần lên. Năm ấy, đất nước có giặc, vua Hùng phải lập đàn khấn cầu các Thần linh giúp sức, lại sai sứ giả đi chiêu tập hiền tài huấn luyện binh nhung. Nghe tiếng loa truyền, 9 rắn hoá thành 9 chàng trai, cùng vào yết kiến nhà vua xin tham gia tiễu trừ quân giặc. 9 anh em nhất hô, bách ứng kéo theo cả thuồng luồng, thuỷ quái ra trận. Chỉ một ngày giặc tan, đất nước trở lại thanh bình. Vua Hùng truyền lệnh phong cho 9 chàng trai là 9 ông Hoàng. Ngày 22 tháng 8 năm Bính Dần, bỗng một vầng hào quang chói loà, 9 chàng trai lại trở thành 9 con rắn trở về với dòng sông Tam Kỳ. Từ đó dân làng truy ơn lập 9 ngôi đền thờ các dũng tướng đã giúp vua trừ giặc ở dọc hai bờ sông, từ bến đò Tranh đến tận cửa biển Diêm Điền và đền Đồng Bằng là nơi thờ người cha chèo đò trên bến sông thuở ấy, với duệ hiệu Trấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải động đình gọi nôm là vua cha Bát Hải. Nỗi oan Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh Một truyền thuyết khác kể rằng Ông là con trai thứ năm của vua cha Bát hải Động đình. Ông là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp là vợ lẽ của một viên quan, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh chồng chung, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Ông vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan kia biết chuyện, vu cho ông đã quyến rũ vợ mình. Ông bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, để chứng tỏ mình vô tội, ông nhảy xuống dòng sông Kì Cùng mong rửa oan. Hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Rồi một ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Đến khi viên quan phủ biết chuyện ông bà nông lão mua gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và đòi giết chết đôi bạch xà. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Nam Việt ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển Thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân. Tượng thờ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh Trong Đạo mẫu, Tam phủ, Tứ phủ thì thờ Phụ Vương Đại Thánh Lạc Long Quân cai quản Thủy phủ Thoải Phủ với vai trò là vua cha tức vua cha Bát hải Long vương Thoải Phủ hay Bát hải Động đình vương Hồ Động Đình ở sông Dương Tử nay thuộc Trung Quốc. Nên Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh chính là con trai của vua Lạc Long quân. Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Quan Tuần Tranh có ngự đồng không? Trong các buổi lễ Mẫu – Tam tứ phủ, Ông Lớn Tuần Tranh đều giáng ngự đồng. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá. Đền thờ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh Quan Tuần Tranh được thờ ở rất nhiều nơi, trong tất cả các đền, phủ, điện mẫu – Tam Tứ phủ nhưng đền chính là đền Tranh – Hải Dương và đền Kì Cùng – Lạng Sơn. Đền Ninh Giang lập bên bến sông Tranh ở xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn nay thuộc thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích và đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng ở xã Vĩnh Trại – Châu Thoát Lãng, nay thuộc thành phố Lạng Sơn cầu Kì Lừa là nơi ông bị lưu đày. Đề thờ Quan Tuần Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương Ngày tiệc Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh Hội đền Tranh là ngày mở tiệc đón, ngày Đản sinh ngày 14/02 Âm lịch từ ngày 10 đến 20/2, ngày tiệc chính của Ông là ngày Hóa ngày 25/5 Âm lịch từ ngày 20 đến 26/5 là ngày ông bị lưu đày và nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này. Bản văn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh Đệ tử con khấu đầu cung thủ Tiến văn chầu đệ ngũ tuần tranh Uy gia lẫm liệt tung hoành Trừ tà sát quỷ lên danh tướng tài Việt sử chép Hùng triều thập bát Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu Dựng nền xã tắc dài lâu Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn Vừa gặp hội bể yên sóng lặng Triệu bách thần gia tặng phong công Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh Bao phen đắp luỹ xây thành Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh, Non nước còn ghi trận tung hoành, Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ, Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh. Ai về qua bến sông Tranh, Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời. Dẫu rằng nước chảy hoa trôi, Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi. Loa đồng hỏi nước sông Tranh, Long đao cứu nước, anh hùng là ai? Sông Tranh đáp tiếng trả lời, Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang Tài cung kiếm sánh cùng võ tử Đức kinh luân ví tựa Trương Tô Phong lưu mã thượng giang hồ Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông Chí đã quyết ngoài vòng cương toả Hay đâu là duyên nợ ba sinh Buồng xuân thiếu bạn chung tình Thoả lòng tráng sĩ tài anh phỉ nguyền Thề non nước nên duyên kì ngộ Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên Tin đâu khẩn cấp ban truyền Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh Có ngờ đâu đất trời thay đổi, Người anh hùng cổ nặng xiềng gông. Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân Trước cung điện, triều đình tra xét, Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi. Ngài oan vì ong bướm lả lơi, Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung. Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt, Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh. Hoàng bào đã nhuôm chàm xanh Tấm thân đành nhục vinh lẽ thường Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ Hỏi trăng già có tỏ cho ai Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi, Vẫn vươn mình há ngại phong ba. Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta, Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng Thà thác vinh còn hơn sống nhục, Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn Kiệt cùng hiu hắt trăng non Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong Lòng riêng đã quyết với lòng Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời Rừng hoa cỏ thương người đã khuất Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa Nỗi oan chuyển động đất trời Dây oan kia biến thành đôi bạch xà Đất Ninh Giang tìm nhà có phúc Thử lòng người trong lúc lánh thân Tháng hai vừa tiết trung tuần Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ Đôi bạch xà tựa cửa hai bên Long xà kì dị thảo hiền Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà Ba tháng sau đàn gà đã hết Thương rắn hiền không biết lo sao Khó Khăn âu cũng tính liều Ông bà nông lão sớm chiều đông tây Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi Hai ông bà mắc tội cửa công Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng Tậu gà nuôi rắn không dung tội này Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể Thương rắn thần tựa thể thương con Khấu đầu tạ trước công môn Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông Long xà thoát xuống thuỷ cung Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan Khắp duyên hải sấm ran từ đấy Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi những phường bán nước hại nòi Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc Tội gia hình bõ lúc sai ngoa Lẽ thường tội báo oan gia hại nhân nhân hại sự đà không sai Nước Văn Lang vào đời Thục Phán, Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng, Triều đình ra lệnh tiến binh, Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời. Bỗng nổi trận phong lôi bão táp Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh Hỏi ra mới biết sự tình Thiết bày hương án lễ trình bên sông Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm Khấn vừa xong gió lặng sóng yên Uy linh sự đã hiển nhiên lệnh truyền dân xã lập đèn bên sông Công hộ quốc gia phong thượng đẳng, Tước phong hầu truy tặng Đại vương, Bảng vàng thánh thọ vô cương Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai. Gương anh hùng muôn đời soi tỏ, Đất Văn Lang thiên cổ anh linh, Bao phen đắp luỹ xây thành, Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng. Xuân Hinh hầu đồng Quan Lớn Tuần Tranh – Khắc Tư và Thanh Long hát văn Xuân Hinh hát văn Quan Đệ Ngũ Bản văn chầu ĐỆ NGŨ LONG VƯƠNG xuất bản năm 1929 – Nhà xuất bản TÂN DÂN THƯ QUÁN trong bản văn này không thấy các bậc tiền nhân viết gì đến “văn oan” như hiện nay cả. Nguyên văn bản văn chầu ĐỆ-NGŨ LONG-VƯƠNG VĂN Đệ-tử tôi vọng bái khấu đầu, Tôi tiến văn chầu Đệ-Ngũ Long-Vương. Đức Ông chính thực phi thường, Thần thông lục trí ai đương anh tài. Cảnh Thiên-thai ông hằng chầu chực, Các Tiên-nàng vũ giực dâng huê. Ngự thời ông giở ra về, Thuyền quân dâng nước Thủy-tề đầy vơi. Bốn phương trời đâu đâu lừng lẫy, Khắp mọi nơi đã dậy thần cơ ; Cửa sông đâu đấy cũng thờ, Đức ông lại nổi đền thờ Tuần-Tranh. Cảnh am thanh nhiều bề lịch-sự. Vẫn phụng thờ tự cổ dĩ lai ; Khi vui bạn với trúc mai, Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca. Trên bảo tòa long chầu phượng vũ, Dưới tam đầu phủ thủ chầu lên ; Lân quỳ hổ phục đôi bên, Đức ông Đệ-Ngũ ngự trên công-đồng. Sắc vua phong kiêm tri tam giới, Hay trừ tà sát khỏi yêu tinh ; Đức ông vạn phép vạn linh, Quyền ông cai quản âm binh nhà trời. Ngự-đồng ai mình giàu bụng quý, Nương uy trời thụy khí đoan trang ; Đức ông hiển hách uy quang, Ra tay cứu trợ nhân gian được nhờ, Dạo thẩn-thơ ra uy hùng hổ, Nương uy trời cứu trợ sinh nhân ; Thường thường nổi trận phong vân, Thượng đồng ban phép cứu dân trừ tà. Khắp gần xa, bách quan đều phục, Ai có lòng giáng phúc hà-sa ; Dù ai bệnh nạn khôn qua, Kêu ông Đệ-Ngũ bệnh hòa tan không. Giốc một lòng làm tôi ông vạn bội, Hoặc trần gian biết hối truyền thơ ; Dù ai cách trở giang hà, Ngọn cờ chỉ núi núi đà tan không. Cung thành ông những sông cùng suối, Đứa gian tà lánh lối xa khơi ; Đức ông dạo khắp mọi nơi, Khi sang Bắc-quốc khi chơi Xiêm-thành. Nức danh tiếng tung hoành dũng dược, Trải non Bồng nước Nhược Thiên-thai ; Khi chơi bạn với trúc mai, Đào lan quế huệ tốt tươi xum vầy. Các bộ nàng ra tay chèo phắt, Ông dạo về cảnh Phật động Tiên. Ba nghìn thế giới như thiên, Đức ông Đệ-Ngũ dạo miền đông tây. Ra uy thổi gió thét mây, Phép ông ứng hiện đổ cây giốc nhà. Kiêm tri tam giới ba tòa, Thỉnh ông giá ngự xướng ca điện tiền. Ông hay độ kẻ hữu duyên, Đức ông khác đạo thần Tiên nhiều bề. Điện tiền lục cúng hương huê, Thỉnh ông giá ngự chớ hề trì-diên. Chữ thập phút làm chữ thiên, Phù hộ đệ tử thiên niên thọ trường. Các bản văn Quan Đệ Ngũ thường được dùng khi thỉnh vào ngày tiệc 14/ và 25/5 âm lịch hoặc hầu đồng giá Quan lớn Tuần Tranh.“Loa đồng hỏi nước sông Tranh,Đao thiêng cứu nước tung hoành là ai?Sông Tranh cất tiếng trả lời,Có Quan đệ ngũ sáng ngời chiến công”Khái quát thần tích Quan Đệ Ngũ3 bản văn Quan Đệ Ngũ hay nhấtBản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 1Bản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 2Bản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 3Bản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 4Văn Giảo Long HầuKhái quát thần tích Quan Đệ Ngũ Quan lớn Đệ Ngũ là vị quan thứ 5 trong hàng Ngũ vị Tôn Quan của hệ thống đạo Mẫu Tứ Phủ. Trong dân gian thương lưu truyền câu chuyện Ngài là vị tướng tài trấn giữ vùng bến sông Tranh, lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Sau này do bị hàm oan, Ngài bị đày lên chốn Kỳ cùng tỉnh Lạng Sơn và rồi hóa ở chính nơi đây. Ngài hiển Thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ, trừ tà, dẹp hết những hẻ hại nước hại dân, được nhân dân biết ơn lập đền thờ phụng. Trong thần điện và trong nghi lễ hầu đồng của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, Quan lớn Đệ Ngũ thường ngự áo màu lam. Ngài được thờ ở Ban Công đồng trong đền, điện phủ của Tín ngưỡng. Đền chính thờ Quan lớn Đệ Ngũ là đền Tranh đền Ninh Giang, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương – chính là nơi que nhà cảu ngài; đền Kỳ Cùng phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Ngày tiệc Quan lớn Đệ Ngũ là 14 tháng Hai và 25 tháng Năm âm lịch hằng hiểu chi tiết hơn về Quan Đệ Ngũ3 bản văn Quan Đệ Ngũ hay nhấtCác bản văn hay nhất thường dùngBản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 1Đệ tử tôi khấu đầu củng thủTiến văn chầu đệ ngũ Tuần TranhUy gia lẫm liệt tung hoànhTrừ tà sát quỷ nên danh tướng tàiCảnh thiên thai Quan Tuần giá ngựCác bộ nàng tiên nữ dâng hoaNinh Giang chính quán quê nhàDanh lam cổ tích ngự tòa ngôi caoĐấng anh hào cổ kim lừng lẫyKhắp mọi miền đã dậy thần cơCửa sông đâu đó phụng thờKỳ Cùng lại nổi đền thờ Tuần TranhCảnh am thanh nhiều bề lịch sửVốn đặt bầy tự cổ dĩ laiCó phen chơi chốn thiên đàiĐào, Lan, Quế, Huệ vui vầy xướng caTrên bát ngát Long, Xà, Hổ phụcDưới tam đầu cửu khúc chầu lênLân rờn Phượng múa đôi bênThỉnh ông Đệ Ngũ ngự trên sập rồngSắc vua phong kiêm tri tam giớiHay tróc tà sát quỷ trừ tinhQuan Tuần vạn phép muôn linhQuyền ông cai quản thiên binh nhà trờiNgự đồng chơi minh quyền bóng quýNương uy trời thuỵ khí đoan trangQuan Tuần hiển hách uy quangRa tay tế độ trần gian được nhờLúc bấy giờ ra uy hùng hổNương uy trời cứu độ sinh nhânĐùng đùng nổi trận phong vânThượng đồng ban phép cứu dân trừ tàKhắp gần xa bách quan đều phụcAi có lòng hưởng phúc hà saDù ai bệnh hạn không quaCầu quan Đệ Ngũ bệnh đà tan khôngNay dốc lòng ơn ông vạn bộiHoặc ai mà nhầm lỗi truyền thaHay là cách trở giang hàCầm cờ chỉ núi núi đà tan khôngTiếng nức danh tung hoành dũng lượcCảnh non bồng nước nhược bồng laiKhi chơi bạn trúc bạn maiBàn loan tiệc ngọc vui vầy sướng caCác bộ nàng ra tay bẻ quếQuan dạo chơi thành thị hồ tiênBa nghìn thế giới dư thiênTiếng Quan Đệ Ngũ khắp miền đông tâyUy ra thổi gió thét mâyPhép ông ứng hiện đổ cây tốc nhàBốn phương hoà đội ơn đức cảAi có lòng hỉ xả từ biPhút thôi ông lại biến điCưỡi tướng Bạch Hổ lên chầu thượng thiênKhi cầm quyền còn đương tra sổHay ông còn đổi sổ cho aiThiên binh văn võ gồm tàiĐức ông lịch sự đáng trai anh hùngĐêm ngày giữ việc thuỷ cungĐợi lệnh cửu trùng cứu trợ sinh nhânAi mà cầu nhân đắc nhânCầu phúc đắc phúc bản thân điều hoàKiên tri tam giới các toàÔng về giáng ngự xướng ca điện tiềnChữ thập biến làm chữ thiênPhù hộ đệ tử thiên niên hoà hàiMột nguyện giáng phúc trừ taiĐồng gia nam nữ ai ai thịnh cườngHai nguyện buôn bán trăm đườngTiền vàng lưu loát bạc vàng đề đaNguyện thứ ba công hầu cập đệHộ tiểu tôi phú quý giầu sangBốn nguyện quốc phú dân anCan qua ninh tỉnh dân an thái bìnhÔng về linh giáng điện đìnhKhuông phù đệ tử khang ninh thọ văn Quan lớn Đệ Ngũ số 2Quyết mở đường dân an quôc tháiDựng cơ đồ vạn đại cao sơnNhớ xưa tích cũ nhiệm màuQuan Lớn Tuần trắc giá ngự đầu kim tinhTuổi niên thiếu đao binh yên ngựaSống vì đời thác trợ muôn dânSinh làm tướng thác làm thầnDấu thiêng ghi để muôn dân phụng thờGương đã tỏ soi đời càng tỏTrấn Ninh Giang vạn cổ anh linhBao phen đắp lũy xây thànhKhắp miền duyên hải sông Tranh nức lòngQuan Lớn Tuần đánh Đông dẹp BắcĐã quyết lòng đánh giặc ghi côngLàm trai đáng mặt anh hùngSông Thương đột phá treo cung non ĐoàiGương anh khí sáng ngời muôn thủaChí hào hùng rạng rỡ non sôngVinh quang thay nòi giống tiên rồngMuôn dân ghi nhớ Quan Tuần ngài tài caoThơSông Tranh ơi hỡi sông Tranh,Non nước còn ghi trận tung hoành,Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,Ngàn thu ghi để dấu oai về qua bến sông Tranh,Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt rằng nước chảy hoa trôi,Sông Tranh dù cạn, ơn người còn đồng hỏi nước sông Tranh,Long đao cứu nước, anh hùng là ai?Sông Tranh đáp tiếng trả lời,Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh GiangNước sông Tranh đêm ngày vẫn chảySóng tuôn trào cuồn cuộn về đâuChúng con nhớ người tráng sĩ lập lên côngNgàn năm ghi nhớ Quan Tuần tài kiêuNgựa chiến xông pha đao thần ra trậnSinh tử vì đời trung hiếu đạo vua tôiBản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 3Việt sử chép Hùng triều thập bátCảnh địa linh Bạch Hạc Phong ChâuDựng nền xã tắc dài lâuNhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìnVừa gặp hội bể yên sóng lặngTriệu bách thần gia tặng phong côngQuan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùngCứu dân hộ quốc nên công hàng đầuGiảo Long hầu khâm ban sắc tứTrấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danhBao phen đắp luỹ xây thànhKhắp miền duyên hải sông Tranh nức lòngTài cung kiếm sánh cùng võ tửĐức kinh luân ví tựa Trương TôPhong lưu mã thượng giang hồCung cầm dưới nguyệt con đò trên sôngChí đã quyết ngoài vòng cương toảHay đâu là duyên nợ ba sinhBuồng xuân thiếu bạn chung tìnhThoả lòng tráng sĩ tài danh phỉ nguyềnThề non nước nên duyên kì ngộBỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiênTin đâu khẩn cấp ban truyềnQuan quân tầm nã khắp miền sông tranhCó ngờ đâu đất trời thay đổi,Người anh hùng cổ nặng xiềng bị bắt giam ở chốn Kỳ CùngQuan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ânTrước cung điện, triều đình tra xét,Bắt long hầu chuyển khắp mọi oan vì ong bướm lả lơi,Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao bào đã nhuộm chàm xanhTấm thân đành nhẹ, nhục vinh lẽ thườngĐường thiên lý quan san bỡ ngỡHỏi trăng già có tỏ cho aiHỏi trăng hỏi gió hỏi trờiHỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâuHỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,Vẫn vươn mình há ngại phong cây ơi có thấu tỏ lòng ta,Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùngThà thác vinh còn hơn sống nhục,Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn SơnKiệt Cùng hiu hắt trăng nonSông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòngNgẫm cảnh vật lòng đau như cắtNợ trần hoàn quyết dứt cho xongLòng riêng đã quyết với lòngMượn dây oan nghiệt cho xong tội trờiRừng hoa cỏ thương người đã khuấtBỗng đùng đùng gió giật mưa saNỗi oan chuyển động đất trờiDây oan kia biến thành đôi bạch xàĐất Ninh Giang tìm nhà hữu phúcThử lòng người trong lúc lánh thânTháng hai vừa tiết trung tuầnThử lòng ông lão mộng thần ứng ngayTỉnh giấc mộng mới hay sự lạĐôi bạch xà tựa cửa hai bênLong xà kì dị thảo hiềnTừ khi xuất hiện vui thêm cửa nhàBa tháng sau đàn gà đã hếtThương rắn hiền không biết lo saoKhó khăn âu cũng tính liềuÔng bà nông lão sớm chiều đông tâyBỗng một buổi tai bay hoạ rủiHai ông bà mắc tội cửa côngLệnh nghiêm sấm sét đùng đùngTậu gà nuôi rắn không dung tội nàyLệ nuốt lệ đắng cay xiết kểThương rắn thần tựa thể thương conKhấu đầu tạ trước công mônXin đem đôi rắn thả luôn giữa dòngCơn phong vũ ầm ầm nổi dậySóng bạc đầu nước xoáy mênh môngLong xà thoát xuống thuỷ cungNước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chanKhắp duyên hải sấm ran từ đấyBóng long hầu nổi dậy nơi nơiNhững phường bán nước hại nòiGian tà quỷ quyệt tội trời không thaDìm đáy nước về toà thuỷ tộcTội gia hình bõ lúc sai ngoaLẽ thường tội báo oan giaHại nhân nhân hại sự đà không saiNước Văn Lang vào đời Thục Phán,Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,Triều đình ra lệnh tiến binh,Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp nổi trận phong lôi bão tápBa quân đều sợ hãi khiếp kinhHỏi ra mới biết sự tìnhThiết bày hương án lễ trình bên sôngMời trưởng lão trong vùng thôn xómKhấn vừa xong gió lặng sóng yênUy linh sự đã hiển nhiênLệnh truyền dân xã lập đền bên sôngCông hộ quốc gia phong thượng đẳng,Tước phong hầu truy tặng Đại vương,Bảng vàng thánh thọ vô cươngHiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn anh hùng muôn đời soi tỏ,Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,Bao phen đắp luỹ xây thành,Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức văn Quan lớn Đệ Ngũ số 4ĐọcChính quán quê nhà Ninh Giang,Danh lam thắng tích một toà ngôi liệt tung hoành uy gia,Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng Thiên thai Quan Tuần ngự giá,Bộ tiên nàng thử tự dâng thôi lại trở ra về,Truyền quân dâng nước Thuỷ tề mênh am thanh nhiều bề lịch sự,Vốn đặt bầy tự cổ vu phen xuất nhập trang đài,Đào lan quế huệ xum vầy xướng Văn Lang vào đời Thục Phán,Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,Triều đình ra lệnh tiến binh,Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp hộ quốc gia phong thượng đẳng,Tước phong hầu truy tặng Đại vương,Bảng vàng thánh thọ vô cươngHiểu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn anh hùng cổ kim lừng lẫy,Cửa sông đâu có phụng thờ,Khắp xa gần đã dậy thần cơ,Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần TranhGương anh hùng muôn đời soi tỏ,Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,Bao phen đắp luỹ xây thành,Khắc miền duyên hải, sông Tranh nức Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,Non nước còn ghi trận tung hoành,Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,Ngàn thu ghi nhớ dấu oai về qua bến sông Tranh,Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt rằng nước chảy hoa trôi,Bến sông Tranh dù cạn, ơn người còn đồng hỏi nước sông Tranh,Thanh long đao năm xưa cửu nước, anh hùng là ai?Sông Tranh đáp tiếng trả lời,Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh GiangOánNhưng nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,Người anh hùng cổ mang nặng xiềng hai nhăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ CùngQuan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái cung điện, triều đình xét hỏi,Bắt long hầu chuyển khắp mọi lớn Tuần oan vì ong bướm lả lơi,Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không đày chốn sơn cùng, thuỷ kiệt,Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao lạnh sương sa vì đời bội bạc,Sự ngay gian đảo lộn trắng cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,Lỡ hại người trong lúc phong cây ơi có thấu tỏ lòng ta,Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh thiên lý quan san bỡ ngỡ,Nợ trần hoàn quyết trả cho hai vừa tiết trung tuần,Thử lòng ông lão, mộng trần ứng giấc mộng mới hay sự lạ,Đôi bạch xà tựa cửa hôm đã quyết khỏi vòng cương toả,Hay đâu còn mắc nợ oan vừa hay có lệnh ban truyền,Quan quân tầm nã khắp miền sông thác vinh còn hơn sống nhục,Cho sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Giảo Long HầuBản văn này do cụ Phạm Văn Kiêm viết dùng để hầu giá Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh thuộc hàng Quan Lớn trong Tứ sơn cùng thủy lưu canh thuyếtLong hầu đệ ngũ chân hào kiệtNinh giang có địa bấy oan cừuAnh dũng hiên ngang huyền nhật nguyệtViệt sử chép hùng triều thập bátCảnh địa linh bạch hạc phong châuDựng nền xã tắc dài lâuNhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìnVừa gặp hội bề yên sóng lặngTriệu bách thần gia tặng phong côngQuan tuần tranh lẫm liệt anh hùngCứu dân hộ quốc nên công hàng đầuGiảo long hầu khâm ban sắc tứChấn ninh giang thủy bộ chư danhBao phen đắp lũy xây thànhKhắp miền duyên hải sống tranh nức lòngTài cung kiếm sánh cùng Võ, TửĐức kinh luân vi tựa Trương, TôPhong lưu mã thượng giang hồCung cầm dưới nguyệt con đò trên sôngChỉ đá sắt ngoài vòng cương tỏaHay đâu là duyên nợ ba sinhBuồng xuân thiếu bạn chung tìnhThỏa lòng tráng sĩ tài danh phi nguyềnThề non nước nên duyên kỳ ngộBỗng sai nên mắc tội oan khiênTin lệnh khẩn cấp ban truyềnQuan quân tầm nã khắp miền sông TranhKhắp thủy điện cung đình tra xétBắt Giao long hầu Tước ngoài khơiTội vì ong bướm là lơiChiết hoa đoàn tụ tội trời không dungLệnh viễn xứ sơn cùng thủy kiệtNỗi oan này có biết hỡi cao minhHoàng bào đã nhuộm chàm xanhTấm thân đành nhẽ nhục vinh lẽ thườngĐường thiên lý quan sơn bỡ ngỡHỡi trăng già có tỏ cho aiHỏi trăng hỏi gió hỏi trờiHỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâuHỏi hoa cỏ mưa dầu nắng dãiVẫn tốt tươi hả ngại phong baCỏ cây ơi có thấu lòng taSơn cùng thủy kiệt sương sa lạnh lùngChữ thác trong còn hơn sống đụcNước sông cùng tắm ngọc côn sơnKiệt cùng hiu hắt trăng nonSông cùng trong đục nước tuôn đôi dòngNgẫm cảnh vật mà lòng như cắtNợ trần hoàn quyết dứt cho xongLòng riêng đã quyết với lòngMượn dây oan nghiệt cho xong tội trờiRừng hoa cỏ thương người đã khuấtBỗng đùng đùng gió giật mưa bayNỗi oan chuyển đất động trờiDây oan đổi biến thành đôi long xàVì cổ quận tin nhà hữu phúcThử lòng người trong lúc lánh nhânTháng hai vừa tiết trung tuầnÔng bà nông lão muôn thần ứng ngayGiấc mộng tỉnh mới hay sự lạĐôi long xà tựa cửa hai bênLong xà kỳ dị thảo hiềnTừ khi xuất hiện vui thêm cửa nhàBa tháng sau đàn gà đã hếtThương rắn hiền không biết lo saoKhó khăn âu cũng tính liềuÔng bà nông lão sớm chiều đông tâyBỗng một buổi tại bay họa rủiHai ông bà mắc tội của côngLệnh nghiêm sấm sét đùng đùngTrộm gà nuôi rắn không dung tội nàyLệ nuốt lệ đắng cay xiết kểThương long xà tựa thể thương conKhẩn đàn tạ trước công mônXin đem đôi rắn thả luôn giữa dòngCơn phong vũ ầm ầm nổi dậySóng bạc đầu nước xoáy mệnh mộngLong và thoát xuống thủy cungNước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chanKhắp duyên hải sấm ran từ đấyBỗng long hầu nổi dậy nơi nơiNhững phường hại nước hại ngườiGian tà quỷ quyệt tội trời không thaDìm đáy nước về tòa thủy tộcTội gia hình bố lúc sai ngoaLẽ thường tội bảo oan giaHại nhân nhân hại sự đà không saiNước Văn Lang từ thời Thục trịGiặc Triệu Đà cố ý xâm lăngTriều đình hạ lệnh tiến binhThuyền bè qua bến sông tranh rợp trờiBỗng nổi trận phong lôi bão tápBa quân đều khủng khiếp sợ kinhHỏi ra mới biết oai linhTrình bày hương án lễ trình bên sôngMời trưởng lão trong vùng thôn xómKhấn vừa xong gió đoạn sóng yênUy linh sự đã hiển nhiênLệnh truyền dân xã lập đền bên sôngCông cứu quốc gia phong thượng đẳngTước long hầu truy tặng Đại VươngBiển vàng thánh thọ vô cươngHiếu trung khi tiết đôi đường vẹn haiOan đã tỏ soi đời càng tỏTrấn Ninh giang vạn cổ tối anh linhThơSông tranh ơi hỡi sông tranhTrăng nước còn in một mảnh tìnhLẫm liệt tung hoành oai tráng sĩNgàn năm ghi để dấu anh linhHỡi ai qua bến sông tranhNhớ người tráng sỹ tài danh tuyệt vờiDẫu rằng nước chảy hoa trôiSông tranh còn đỏ ơn người còn ghiTrên đây là các bản văn Quan Đệ Ngũ hay nhất được Tín Ngưỡng Việt sưu tầm để giới thiệu đến các bạn. Kinh chúc bạn và gia đình luôn mạnh khỏe – bình ThêmBản văn Quan đệ TứBản văn Quan đệ TamBản văn Quan đệ NhịBản văn Quan đệ Nhất

văn quan đệ ngũ